Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Y Thuật và Y Dược của người thầy thuốc trong tiểu thuyết Kim Dung


Y Thuật và Y Dược của người thầy thuốctrong tiểu thuyết Kim Dung

                                                                                        Thu Phan

Người hành hiệp trên giang hồ có cuộc sống của một chiến binh có nghĩa là trong cuộc đời của họ luôn đối mặt với thương tích, bệnh tật và cả cái chết. Trong giao đấu, họ có thể bị đâm một nhát kiếm thủng bụng, hay một chưởng dập phổi. Trong khi đi chơi cũng có thể bị một ám khí lấy mất mạng. Thậm chí lúc ăn, lúc ngủ cũng có thể bị ám toàn bằng độc chất. Bởi thế cho nên trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung luôn có hình ảnh của người thầy thuốc. Đó có thể là vị chưởng môn của một môn phái, cũng có thể là một người luyện võ đã thành danh kèm thêm ngón nghề chữa bệnh để tự cứu mình, cứu bạn bè hay đệ tử của mình. Nhưng người thầy thuốc nổi bật nhất trong các tiểu thuyết của Kim Dung chính là thần y Bình Nhất Chỉ trong kho tiểu thuyết “Tiếu ngạo giang hồ” và tiên y Hồ Thanh Ngưu trong “Ỷ thiên đồ long ký”.

Tại Việt Nam, người được mệnh danh là nhà Kim Dung học là nhà văn Vũ Đức Sao Biển. Khi viết bình luận về các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung đã đề cập đến người thầy thuốc mang tên Bình Nhất Chỉ, với danh xưng “Sát nhân danh y”. Theo tôi, đây là vị thầy thuốc tài ba về y thuật, đơn cử chỉ cần cầm tay bắt mạch là biết ngay anh chàng Lệnh Hồ Xung bị bảy luồng chân khí dị chủng hành hạ, nhưng quái đản về y đức, cứu một người thì phải giết ngay một người. Tuy nhiên đây cũng là một vị Thầy thuốc đầy trách nhiệm và vô cùng tự trọng nghề nghiệp. Bằng chứng là khi không chữa được bệnh cho Lệnh Hồ Xung ông đã không ngần ngại vặn đứt kinh mạch của mình để tự sát.

Đọc “Kim Dung giữa đời tôi” quyển trung, chương 17 ta mới thấy rõ sự hứng thú cao độ của nhà văn, nhà giáo, nhà viết nhạc kiêm luật sư Vũ Đức Sao Biển. Riêng tôi, tôi thích thú hơn về một nhân vật có một nổi đam mê nghề nghiệp vô tận, có một nghệ thuật chữa bệnh uyên bác và trên hết là một tình yêu vô cùng thủy chung. Đó chính là tiên y Hồ Thanh Ngưu trong bộ Ỷ thiên đồ long ký.

Hồ Thanh Ngưu hồi còn trẻ đã gia nhập Minh giáo học võ nghệ nhưng lại chuyên nghiên cứu về y thuật. Ông một đời say mê y thuật. Nhiều bệnh ngỡ là bó tay đến ông đều chữa khỏi. Sở trường của ông là điều trị những bệnh trúng độc chất. Người đời

tôn ông là Y tiên. Chữa bệnh đạt đến chữ “Tiên” tức là đã đạt đến chỗ tuyệt diệu của y thuật. Ông kết bạn trăm năm với sư muội của mình tên Vương Nạn Cô. Vị cô nương này ngoài võ thuật lại đam mê nghiên cứu độc thuật. Chẳng bao lâu tài nghệ sử dụng độc chất của Nạn Cô thần diệu vô song. Trên đời chẳng ai bì kịp vượt cả thầy dạy mình.Vì thế người đời tặng cho danh hiệu “Độc tiên”. Sử dụng độc chất mà được tôn xưng là tiên thì quả thật hiếm có. Cả hai người sau khi nên vợ thành chồng sống ở một thung lũng có nhiều hoa và đặc biệt  có vô số các loại bướm nên thung lũng này gọi là Hồ Điệp Cốc. Họ rất yêu nhau. Hồ Thanh Ngưu vốn tính rất chiều chuộng sư muội cũng là vợ mình, không bao giờ dám làm phật ý nàng. Nhưng bi kịch của cuộc đời chính là sự trái ngành nghề của nhau. Vương Nạn Cô chuyên hạ độc còn Hồ Thanh Ngưu thì làm công việc ngược lại, chuyên cứu sống cho những người bị trúng độc. Tài phóng độc của Vương Nạn Cô đã đến mức thần sầu do đó, người lâm nạn nếu không được Tiên y cứu chữa thì chỉ có chết. Với y thuật cao minh và tính đam mê  nghề nghiệp nên hầu hết các nạn nhân của Độc tiên đều được Y tiên chữa khỏi. Lâu dần tạo nên mâu thuẫn giữa hai người. Người vợ tự ái cho rằng như thế Y tiên giỏi hơn Độc tiên nên Nạn Cô rời khỏi Hồ Điệp Cốc đồng nghĩa với rời bỏ Hồ Thanh Ngưu để hành hiệp một mình và trau dồi độc thuật với rời bỏ Hồ Thanh Ngưu để hành hiệp một mình và trau dồi độc thuật. Vì quá yêu vợ và sợ người mình yêu giận hờn, tự ái nên Hồ Thanh Ngưu quyết không chữa cho những ai bị vợ mình hạ độc. Nhưng trời cao đất dày trên đời biết ai là kẻ do vợ mình hạ độc và ai là kẻ bị người khác hạ độc để mà tránh thì thật vô cùng khó khăn. Vì thế ông lập trọng thể “Hễ người nào không ở trong Minh giáo thì dù thấy chết cũng không cứu chữa”. Vì ông cho rằng Nạn Cô là người Minh giáo thì sẽ không hại người cùng giáo phái. Như thế ắt tránh khỏi làm mếch lòng người mình yêu. Và kể từ đó ông có biệt danh “Kiến tử bất cứu” Thấy người đang hấp hối mà không cứu chỉ áp dụng cho người ngoài Minh giáo. Mặc dù cẩn thận như thế nhưng Hồ Thanh Ngưu vẫn đôi lần bị hố vì tài hạ độc của hiền thê quá thần diệu vô hình vô tướng nên Hồ Thanh Ngưu không biết là do vợ mình, cứ dày công nghiên cứu chữa trị cho kỳ hết và vì thế tình phu thê càng ngày càng tổn hại. Cũng vì lời thề không chữa cho người ngoài Minh giáo nên Hồ Thanh Ngưu đã gặp một tai họa khủng khiếp. Một ngày nọ có hai vợ chồng là chủ nhân đảo Linh Xà ngoài Đông Hải. Người chồng chính là Ngân Diệp tiên sinh và người vợ là Kim Hoa bà bà tìm đến Hồ Điệp Cốc với lễ vật chu đáo mong được chữa trị vì cả hai đều trúng độc chưỡng. Hồ Thanh Ngưu xem bệnh và đoán trúng phóc bệnh lý hai người. “Hai vị trúng độc không giống nhau. Lão Đảo chủ thì không thuốc gì chữa nổi song vẫn sống vài năm nữa. Lão phụ nhân trúng độc không sâu nên có thể dùng nội lực bản thân tự hóa giải”. Biết là biết rõ như thế nhưng không chịu chữa vì là người ngoài Minh giáo. Quả nhiên

hai năm sau lão đảo chủ tạ thế còn lão phu nhân tức Kim Hoa bà bà khỏi bệnh để rồi một ngày kia tìm đến Hồ Điệp Cốc trả thù vô cùng độc ác.
Cũng nên biết thêm Hồ Thanh Ngưu chính là người thầy dạy y thuật cho Trương Võ Kỵ và cũng đồng thời giúp Vô Kỵ kéo dài cuộc sống cho đến khi có cơ duyên luyện được Cửu dương thần công để tự chữa lành nội thương cũng như đẩy được Huyền Minh thần chưởng ra khỏi kinh mạch.

Về chuyện Hồ Thanh Ngưu chữa trị cho Trương Vô Kỵ cũng là một tình cờ thú vị. Trương Vô Kỵ vốn là cháu ngoại của Thiên Ưng giáo chủ Hân Thiên Chính là một giáo phái tách ra từ Minh Giáo nhưng lại là người của Võ Đang được Thường Ngộ Xuân một người Minh Giáo vì chịu ơn của trưởng môn phái Võ Đang Trương Tam Phong nên tình nguyện đưa Vô Kỵ đến Điệp Cốc cầu cứu Hồ Thanh Ngưu xin được chữa trị. Lúc đầu, Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa trị nhưng khi biết Vô Kỵ trúng Huyền Minh thần chưởng rất hiếm thấy trên giang hồ làm kích thích tò mò của tiên y muốn thử tài nghệ của mình có kéo dài mạng sống bệnh nhân quá hai năm không? Ngoài ra nhờ tính khí khái ngay thẳng kèm theo sự thông minh tuyệt đỉnh của Vô Kỵ mà Hồ Thanh Ngưu đã không những toàn tâm toàn ý chữa trị cho Vô Kỵ mà còn truyền đạt tất cả các kiến thức về y lý của mình cho người bệnh trẻ tuổi này. Và khi bị Kim Hoa bà bà truy sát, Hồ Thành Ngưu đã không ngần ngại trao hết sách vở y thuật với mong ước Vô Kỵ thay mình truyền lại cho đời.

Mặc dù khéo léo ngụy trang cho cuộc chạy trốn bằng hai ngội mộ nơi Hồ Điệp Cốc. Nhưng cuối cùng hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô đã chết thảm dưới tay của Kim Hoa bà bà. Có một điều an ủi là trong lúc sống có những chuyện xích mích làm hai người không bằng lòng nhau nhưng trong hoạn nạn, họ cùng nhau đối phó với kẻ thù cho đến chết. Điều đó nói lên tình yêu thủy chung giữa hai người và cũng biện luận được vấn đề “kiến tử bất cứu” như Hồ Thanh Ngưu đã từng nói với Trương Vô Kỵ “ta biết rằng vì không chịu trị thương giải độc mà đã chuốc lấy không ít oán thù, nhưng tình phu thê sâu nặng ta không thể vì người ngoài mà làm cho tình nghĩa đó bị tổn thương”.

Ôi cao đẹp thay cho những ai có được một mối tình thủy chung đến thế, nhưng oái ăm thay cái giá của sự thủy chung này là cái chết của hai người. Cho dù cả hai đã chuẩn bị một cuộc đào tẩu khi biết tin Kim Hoa bà bà sẽ tìm đến để trả thù. Mặc dù cả hai đã ngụy trang khéo léo cho chuyến ra đi kể cả việc tạo dựng hai ngôi mộ giả nơi Hồ Điệp


Cốc, nhưng cái chết vẫn đến với hai vợ chồng họ vì kẻ thủ ác quá tinh khôn và vô cùng độc ác.

Mấy ngày sau trên đường đến Quang Minh đỉnh để tìm cha cho Dương Bất Hối theo lời trăn trối của Kỷ Hiểu Phù. Trương Vô Kỵ đã nhận ra hai xác chết treo trên một cành cây trong một khu rừng không xa Điệp Cốc là bao, không ai khác hơn chính là xác của đôi vợ chồng Y tiên Hồ Thanh Ngưu và Độc tiên Vương Nạn Cô đã làm dấu chấm hết cho một mối tình đẹp nhưng bi thảm!

CÁI CHẾT CỦA THẦN Y HOA ĐÀ VÀ BỆNH LÝ NHỨC ĐẦU CỦA TÀO THÁO


CÁI CHẾT CỦA THẦN Y HOA ĐÀ
VÀ BỆNH LÝ NHỨC ĐẦU CỦA TÀO THÁO

                                                                                                      BS Thu Phan  

Hoa Đà tự là Nguyện Hóa, người Tiêu Quận, Tỉnh An Huy (thuộc nước Bái). Ông sinh năm 141 (có tài liệu nói khác hơn) và mất năm 208 sau công nguyên. Ông sinh ra và lớn lên vào thời hậu Hán, lúc nhà Hán suy vong giặc giả khắp nơi sau đó nước Trung Quốc chi làm 3 nước: Ngụy  - Thục – Ngô gọi là thời Tam Quốc. Ông sống ở Kim thành thuộc nước Ngụy nhưng hành đạo thì khắp mọi miền

Trong lịch sử y học Trung Quốc ông được xếp vào hàng Thần Y. Bệnh nhân của ông có nhiều người rất nổi tiếng được ông chữa bệnh như ông Thái Thú Quảng Lãng tên là Trần Đăng bị bệnh ký sinh trùng ruột (sán lá), ông Châu Thới bị bệnh lị, ông Quang Võ bị viêm cơ xương do trúng tên độc. Nhưng nổi tiếng hơn cả chính là Tào Tháo, thừa tướng nước Ngụy với chứng bệnh nhức đầu kinh niên. Với chứng bệnh này lúc đầu ông dùng phép châm cứu chữa trị gần dứt hẳn nhưng sau đó vì Tào Tháo phải đi chinh chiến nhiều năm sau bệnh lại tái phát nặng hơn. Ông Hoa Đà đã đề nghị với Tào Tháo một phương pháp điều trị táo bạo đó là giải phẫu lấy khối u ở trong đầu. Tào Tháo không tin và cho rằng Hoa Đà cố ý hại ông nên bắt Hoa Đà giam vào ngục thất nhục hình cho đến chết.

Lúc còn sống ngoài chuyện đi đây đó để chữa bệnh cho bá tánh ông còn viết rất nhiều sách y học để lại hậu thế tuy nhiên không hiểu vì sao bị thất lạc. Hiện nay có lưu truyền bộ Hoa Đà Thần Y Bí Truyền người ta cho rằng do các học trò của ông ghi lại.

Tào Tháo hồi nhỏ còn có tên là Tao A Man tự là Mạch Đức người Tiêu Quận nước Bái (cùng xứ với Hoa Đà) sinh năm 155. Cha là Tào Tung dòng họ Hạ Hầu nhưng làm con nuôi của quan Thường Thị Tào Tham nên mới đổi ra họ Tào. Năm 20 tuổi Tháo đã làm quan Hiếu Liêm sau lên chức Hiệu uy thấy Đổng Trác chuyên quyền áp chế vua tôi nhà Hán nên chống lại bằng âm mưu giết Đổng Trác. Việc không thành phải chạy trốn. Về sau cùng các quan lại khác khởi nghĩa và tiêu diệt được Đổng Trác. Thế lực họ Tào càng ngày càng mạnh. Chẳng bao lâu sau ông trở thành thừa tướng của nhà Hán cai quản nước Ngụy. Khi có quyền lực trong tay ông cũng áp bức vua tôi nhà Hán không khác gì bọn Hoạn Quan, bọn Đổng Trác. Ông mất vào năm Kiến An 25 (tức năm 220 sau tây lịch) thọ 66 tuổi. Từ năm 40 tuổi Tào Tháo phải khổ sở vì chứng nhức đầu dai dẳng. Bệnh lý của Tào Tháo có thể tóm tắt như sau: Ông có các cơn

nhức đầu kéo dài xảy ra từ năm 40 tuổi cơn đau tăng dần điều trị với rất nhiều thầy thuốc mà không khỏi. Đêm nằm ngủ thường giật mình. Hay nằm mơ thường là những giấc mơ dữ như thấy ma quỷ, thấy cung điện bị đốt cháy hay bị sụp đổ. Thuở nhỏ có thể ông có bị động kinh tuy nhiên sách Tam Quốc Chí thì cho rằng ông giả vờ bị động kinh để làm cho cha mình không tin vào lời nói của ông chú vốn ghét Tào Tháo. Sách Tam Quốc Chí diễn nghĩa của La Quán Trung bản dịch của Phan Kế Bính viết như sau:
“Tào Tháo lúc còn bé thích săn bắn và chơi bời lêu lổng, tính lại hay trí trá vặt. người chú không ưa Tháo nên mách với bố Tháo là Đào Tung để la rầy con. Tháo lấy việc đó làm hằn học với chú. Một hôm y nghĩa ra một kế. Đang vui chơi thấy chú mình đi qua bèn lăn đùng ra làm bộ như động kinh người chú báo lại với bố Tháo. Bố Tháo chạy ra xem thì thấy Tháo đang vui chơi như không có việc gì bèn mới hỏi Tháo: Con mới bị động kinh à! Tháo nói không và thưa thêm Chú con ghét con nên rủa con như thế đấy. Từ đó bố Tháo không còn tin vào em mình nữa”

Với lối diễn tả như trên cho thấy đúng Tào Tháo là đứa trẻ trí trá nhưng cũng cho biết Tào Tháo thỉnh thoảng có bị lên cơn động kinh. Với chứng nhức đầu này Tào Tháo đã chữa trị với nhiều thầy thuốc nổi danh như ông Cát Bình (ông này cũng bị Tào Tháo giết) ông Tả Từ dùng biện pháp cúng bái, thôi miên. Ông Quản Lộ (chuyên bói toán, bấm độn) đều không khỏi.

Lần đầu Hoa Đà được mời đến ông chữa trị bằng phép châm cứu bệnh thuyên giảm gần hết nhưng vì Tào Tháo phải điều binh đi đánh quân Thục ở phần Thành nên không được chữa chạy. Mấy năm sau bệnh đến hồi nặng ông lại cho mời Hoa Đà. Lần này Hoa Đà nói rằng: “Đại Vương nhức đầu bởi nhiễm độc tại óc, uống thuốc cũng uống mà thôi.Tôi có một phép này. Trước hết uống một thang Ma Phi Tán sau đó lấy búa bửa óc ra lấy hết chất độc trong óc thì mới chữa khỏi bệnh”

Với cách đặt vấn đề như trên ta có thể hiểu rằng Hoa Đà đã chẩn đoán bệnh của Tào Tháo là u não hoặc là ung não (abces) cho nên mới điều trị bằng phẫu thuật. Tuy nhiên vì cách điều trị này quá mới mẻ đối với thời bấy giờ nên Tào Tháo không tin và cho rằng Hoa Đà muốn hại mình như ông thầy thuốc Cát Bình trước đây nên sai tả hữu đem Hoa Đà bỏ vào ngục.

Nói về Hoa Đà trong thời gian giam trong ngục thực chất được một ông cai ngục họ Ngô (gọi là Ngô áp ngục) vốn đã nghe danh Thần Y này nên đối đãi rất tử tế, ngày

nào cũng mang cơm mang rượu cung phụng Hoa Đà. Vì cảm cái ơn ấy nên khi biết mình sắp bị giết ông bèn kêu cai ngục họ Ngô lên mà bảo rằng (sách Tam Quốc Chí diễn nghĩa trang 1098)

Ta nay sắp chết hiềm vì ta có một quyền Thanh Nan chưa truyền ra đến ngoài. Nay ta cầm cái bụng tử tế của ông không biết lấy gì báo được. Vậy nên ta viết cái thư này ông đem về nhà ta mà lấy quyển sách ấy đem về đây để ta tặng cho ông để ông nối cái nghiệp này cho ta.
Ngô áp ngục mừng rở nói rằng – nếu tôi được quyển sách ấy thì tôi bỏ ngay việc cai ngục này về học thuốc chữa bệnh cho thiên hạ để truyền cái đức của Tiên Sinh.
Họ Ngô mang thơ về tân Kim Thành hỏi vợ Hoa Đà để lấy quyển sách đẻm vô nhà ngục đưa cho Hoa Đà, Ông kiểm tra lại sắp xếp đâu vào đó rồi rặng cho Ngô áp ngục. Vị cai ngục họ Ngô mừng lắm đem về nhà cất bộ Thanh Nan ở một nơi kín đáo.
Mười ngày sau Hoa Đà chết. Họ Ngô mua áo quan về khâm niệm và chôn cất tử tế sau đó xin thôi việc canh ngục về nhà đem bộ sách ra học. Một hôm đi xa về thấy vợ đem quyển sách thuốc của Hoa Đà tặng ra đố. Họ Ngô thấy thế chạy lại giằng ra thì chỉ còn vài ba trang chưa cháy. Họ Ngô giận quá chửi mắng vợ, vợ nói ông phỏng có học giỏi như ông Hoa Đà thì cũng chết trong ngục mà thôi, lợi ích gì sách ấy mà giữ. Họ Ngô chủi bới than thở một hồi cũng thôi, bởi thế quyển Thanh Nan không được truyền được ra ngoài đời. Chỉ một vài trang còn sót đó là những trang ghi lại các thủ thuật nhỏ về ngoại khoa như thiến gà, thiến lợn này vẫn còn truyền lại trong nhân gian”.

Ngày đó nếu Tào Tháo không giết Hoa Đà có lẽ ngày nay nền y học Phương Đông có thêm nhiều tài liệu về các phương pháp trị liệu, các bài thuốc nhất là thủ thuật về ngoại khoa. Ngày đó nếu Tào Tháo chịu để cho Hoa Đà áp dụng thủ thuật thì có lẽ là lịch sử y học Trung Quốc và cả Thế Giới đã có một ca mổ sọ não vô cùng ngoạn mục xảy ra nào khoảng năm 208 sau công nguyên.

Nhưng dù gì đi nữa Hoa Đà cũng đã được xem là một trong những nhà phẫu thuật đầu tiên của Trung Quốc khi ông biết dùng loại thang thuốc “Ma Phi Tán” một loại thuốc tương tự thuốc gây mê ngày nay cho bệnh nhân uống để phẫu thuật các u nhọt ở vú, may các vết thương ở bụng. Sử sách cùng ghi lại ca phẫu thuật cho Quan Vân Trường khi ông này bị nhiễm độc cơ xương cánh tay do trúng tên độc bằng cách khoét bỏ mô hoại tử kèm theo nạo xương, một phương thức điều trị không khác mấy các nhà ngoại khoa này này khi tiến hành phẫu thuật điều trị viêm xương.



Ông Hoa Đà mất đi giới y học và nhân dân Trung Quốc bấy giờ mất đi thầy thuốc giỏi và đáng tiếc hơn hậu thế mất đi những tư liệu những bài thuốc chữa bệnh hay mà ngày nay người ta không biết lý do tại sao có sự thất truyền như thế chính vì lý do đó mà giả thuyết của nhà văn La Quán Trung nêu lên – Vợ của Ngô áp ngục đốt – cùng củng cố cho lý do của sự thất truyền nói trên một sự thất truyền hy hữu!!!.


Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

Thanh Angelique


Thu thân mến

Anh Thuận là em ông Ngân phụ tá cho TT Thiệu. Anh là bs cho TT tới ngày TT từ trần.hôm đám cưới con trai ongTT anh làm chủ hôn.bs giải phẩu nay về hưu .anh khoả với chi tinh châu.hung50 về vn cần gì không ?

Khôi nguyễn i pad.

Begin forwarded message:
From: T N <tvnyxn@yahoo.com>
Date: March 16, 2013, 9:50:35 AM PDT
To: "ykhoahue@yahoogroups.com" <ykhoahue@yahoogroups.com>
Subject: Re: [ykhoahue] 99Độ giới thiệu bài mới của anh Phan Tiêu Thu
Reply-To: ykhoahue@yahoogroups.com
Thu thân,
Tôi thích bài viết của Thu.
Bài viết ngắn, chân thành, không hoa bướm. Nói về một trạng huống đau buồn, trong một giai đoạn bi thương, mà không cần một nỗ lực bi thảm hóa câu chuyện, vì sự việc vốn đã bi thảm. Thu thản nhiên kể chuyện, không cần kể nhiều, không cần nói nhiều, chỉ trong một hai trang giấy mà gói lại được bao nhiêu điều đau đớn của một giai đoạn, của một cảnh sống. Thật ra, một tiếng cười nửa miệng có khi còn xót xa hơn nhiều, một cái nghiến răng trong bóng tối còn kinh khiếp hơn những tiếng hét. Không ai có thể bi thảm hóa sự việc bằng những giọt nước mắt, hay bằng những thêm thắt, vẽ vời.
Thu đã rất thành thật với chính mình, và đã nắm vững kỹ thuật kể chuyện. Phản thân nhi thành vẫn mãi mãi là cái nguyên lý sống. 99 độ ngày càng có nhiều bài hay, từ những bài biên khảo công phu của thầy Vận, cho đến những bài viết về chuyện chơi của Thương. Một ngày nào đó, khi đã có được nhiều đóng góp, chúng ta có thể in thành sách. Mong lắm thay. Xin cảm ơn các bạn trong ban điều hành. Cảm ơn Thu.
 
Nguyễn Văn Thuận - Houston.

From: Phung Buu <phungbuu@gmail.com>
To: 'YkhoaHue' <ykhoahue@yahoogroups.com
Sent: Friday, March 15, 2013 5:11 PM
Subject: [ykhoahue] 99Độ giới thiệu bài mới của anh Phan Tiêu Thu
 
Bất cứ ai đã từng lớn lên và đi học ở Huế, nhất là thời gian dài 7-8 năm với trường YK Huế, sẽ phải mang theo không biết bao nhiêu kỷ niệm một khi rời Huế. Qua bài “Thanh Angelique”, bạn Phan Tiêu Thu không những đã mô tả những khó khăn sinh sống, những thay đổi ở quán trước Bưu Điện sau biến cố 1975, mà còn cho thấy một khía cạnh khác của kỷ niệm thời sinh viên, của thời các nữ tài tử tuyệt sắc với các tên đôi như BB, CC hay MM, qua nhân vật Thanh, một cô chủ quán xinh đẹp.
BBT mong sẽ có dịp đón chào bạn Phan Tiêu Thu trong mùa ĐH YKH tháng 8, 2013, để còn được bạn cho biết thêm những kỷ niệm khác của khóa 9.
 
THANH ANGELIQUE
 
Nếu nói Angelique không thôi thì ta sẽ nghĩ đến câu chuyện về một kiều nữ bên Tây được điện ảnh hóa từ thập niên 60 của thế kỷ trước do cô tài tử Michele Mercier vào vai chính, nhưng khi nói Thanh Angelique thì những thành viên (nam) YK9 Huế đều biết nhân vật này là ai.
 
    Mình không nhớ rõ lần đầu gặp nhân vật này như thế nào, chỉ nhớ sau tháng 4/75, lúc Miền Nam vừa đổi chủ, cũng là lúc mấy thằng SV YK9 lớp mình, nhất là mấy thằng không có gia đình ở Huế cảm thấy bất an, vừa đói, vừa chán đời; chán đời vì không biết tương lai của mình sẽ đi về đâu, còn đói là cái chắc. Thử nghĩ xem, thầy chẳng phải thầy, thợ không phải thợ, lương nội trú được 22 đồng với một ít nhu yếu phẩm và 13 kg lương thực quy ra gạo thì sống làm sao đây? Buổi sáng lãnh từ Bệnh viện mỗi thằng một ổ bánh mì đá, tên gọi của thứ bánh mì làm từ bột mì trộn với bột khoai mì nên cứng như đá, kéo nhau ra ngồi trong cái quán cóc ở vỉa hè bên hông trường tiểu học Lê Lợi, nhìn qua bên kia là bưu điện thành phố Huế. Cô chủ quán tên Thanh người dong dỏng cao, nước da ngăm ngăm, đôi mắt to, sâu, và có đuôi khá tình tứ khi cười, tóc quăn nhẹ thả hờ hững trên đôi vai gầy, dù không trang điểm nhưng vẫn khá hấp dẫn tờ tợ như cô tài tử đóng vai Angelique. Chúng tôi cứ thế mà gọi Thanh Angelique. Thật ra Thanh không có một vẻ đẹp sexy, nhưng nhờ vóc dáng cao ráo nếu ở vào thời này, mông má chút đỉnh, lancer chút đỉnh thì có thể lên sàn casting được.
 
     Thanh lúc nào cũng cười tươi, cặp mắt tình tứ liếc ngang, liếc dọc khá lẳng lơ làm nhói tim biết bao chàng...YK9. Nguyễn bá Trí với con mắt cú vọ của mình luôn bám sát vào vòng 3 của cô nàng, cặp mắt ốc nhồi của Nguyễn quý Ninh thì như muốn bóc lớp áo trên ngực của Thanh, còn HÙNG 49 luôn nhìn Thanh với vẻ thòn thèm trông rất đểu. Phạm Súy thì làm như vẻ thờ ơ nhưng thằng này ghê lắm có lần mình ra trực về khu cư xá thấy hắn và Thanh từ trong cư xá đi ra!!!
 
     Ở quán của Thanh ngoài cà phê còn có một món rất độc đó là xôi thịt hon. Món này đối với SV đã là quý hiếm, sau 75 là hàng độc, hàng cao cấp không phải lúc nào cũng có đủ tiền để ăn dù giá lúc đó một dĩa xôi và một chén thịt hon là một đồng bạc mới. Cỡ SV tụi tôi mỗi tuần may ra được ăn một lần vào ngày chủ nhật vừa uống cà phê vừa ngắm người qua lại vừa thưởng thức miếng thịt heo cân nạc cân mỡ được hầm nhừ với đậu, với mè, với sả, với nấm tai mèo, với thứ nước dùng óng ánh sắc vàng béo ngậy... mà tôi không tài nào diễn tả hết chỉ biết nói một câu là rất tuyệt cú mèo.
 
    Ngày thường 2-3 đứa chung nhau mua một chén nước thịt hon năm hào, rồi rút từ trong túi ra một ổ bánh mì đá như đã nói ở trên ngồi chấm nước thịt hon ăn ngấu nghiến. Đôi khi cô chủ quán thương tình cho thêm ít đậu, ít nấm, nhưng tuyệt nhiên không có thịt. Thanh cũng rất thông cảm với túi tiền của SV nên cũng có thể bán chịu mà vẫn vui vẻ. Phạm Súy là con nợ rất thường xuyên của Thanh.
 
      Cuối năm 76 lớp tụi tôi rã đám, đa phần lên Tây nguyên, một số rất ít vào miền Nam, chỉ vài đứa được ở lại Huế; ra đi mang theo nhiều kỷ niệm khó quên trong đó mình dám chắc có hình ảnh cô hàng cà phê Thanh Angelique.
 
       Mấy năm sau tình cờ tôi gặp lại Thanh ở Sài gòn. Thanh bán thuốc lá và bán xăng "chui" trên đường Nguyễn Huệ Q.1. Hồi đó tôi ở Bình Thạnh, đi làm bên Q.4 nên ngày nào cũng thấy Thanh; tôi chỉ nhìn và chào nhưng không có thì giờ nói chuyện với nhau nên không biết cuộc sống của Thanh như thế nào.
 
     Tôi có một thằng bạn, một thằng đàn em thì đúng hơn, nhỏ hơn tôi chừng dăm bảy tuổi nhưng tính "dê" thì cao hơn tôi nhiều lần. Hắn thường kể đối diện nhà nó ở chung cư Thanh Đa có một cô gái mình dây, có chân dài, dài như thế này..., có vú bự như thế này này… mà luôn mặc đồ ngủ mỏng tanh ra đứng ngoài hành lang trông đã thèm luôn. Có một lần hắn mời mình về nhà hắn ăn thôi nôi con đầu lòng, sau bữa tiệc hắn kéo tôi ra hành lang bảo tôi nhìn qua bên căn hộ đối diện nói: "Cái cô mà em hay kể với anh đó đó..." Tôi chưa kịp nhìn kỹ thì nghe tiếng gọi "Anh Thu, anh Thu phải không? Anh còn ở VN à, anh qua bên nhà em chơi." Trời ạ, tôi chỉ còn cách độn thổ.
 
     Súy mỗi lần về Sài gòn đều hỏi thăm Thanh, hồi năm 2008 mình qua Mỹ, Hùng 49 cũng có nhắc về Thanh Angelique. Đó các bạn thấy không, tụi mình rời Huế đứa nào cũng mang theo ít nhiều kỷ niệm của thời trai trẻ trong đó có vài hình ảnh về cô nàng cà phê Thanh Angelique.
                                                                                                       
THU PHAN
 
 
Mục lục 99 độ                  Trang chủ YKHHN
 
Đường vào thẳng bài viết: http://www.ykhoahuehaingoai.com/99do/ThanhAngelique.htm
 
 
 

Trương Thoại Hào một người rất Huế


Trương Thoại Hào một người rất Huế.

Vào ngày này năm ngoái (8/1 Âm Lịch). Hào đã ra đi, vĩnh viễn từ bỏ vợ con, gia đình, bè bạn, từ bỏ những cuộc vui chơi mà Hào vốn là là người ham vui, ham chơi.
          Tôi quen và chơi thân với Hào vì tôi cũng là một người ham vui như thế.
          Cũng không nhớ tụi Tôi đã quen với nhau như thế nào và từ lúc nào. Hồi con đi học Hào học sau tôi một lớp. Tôi khóa 9, con Hào khóa 10. Khi còn là Sinh viên chỉ biết tên biết mặt, ra trường mỗi người đi một ngã. Hào lên Tây Nguyên được vài ba năm rồi về định cư ở vùng Gia Kiệm thuộc tỉnh Đồng Nai. Còn tôi mấy năm sau giải phóng chi sống ở Sài Gòn. Một dịp tình cơ nào đó chúng tôi ngồi lai rai với nhau ở một quán cóc bên lề đường Lê Văn Sỹ, hình như hôm đó có Lê Minh, Lê Nhược Thủy và vợ chồng Lê Minh Đạo. Hào có mối ăn to nói lớn và hay cường điệu rất ấn tượng dễ gây chú ý đối với người nghe trong đó có tôi. Nhưng cũng vì lối ăn nói lớn đó mà có kẻ yêu người ghét. Nói ghét thì không đúng lắm, phải nói có nhiều người dị ứng với lối ăn nói bổ bả của Hào. Cái cách thêm một chút mắm một chút muối để cho câu chuyện thi vị hôn, tiếu lâm hơn hay lố bịch hơn để cùng nhau cười cho vui….lắm lúc đã làm cho Lê Minh Đạo đỏ mặt, cho Phan Trọng toàn bực mình. Trần Minh San phải văng tục.
          Điều mà ai cũng thừa nhận nơi Hào là một người thẳng tính, rất chân tình với bạn bè và sau cùng phải nói Hào là một con người rất ….Huế!
          Hào yêu Huế vô cùng. Cách cư xử với cha mẹ, anh em, vợ con cũng rất Huế và rất phong kiến như một dân “mệ” chính cống. Cứ nhìn thấy cảnh vợ đẻ năm một đến đứa thứ tư, thứ năm rồi không có con trai thì cũng cứ phải đẻ là đủ biết trình độ “thủ cựu” của hắn tới mức nào. Trong nhà, ngoài phố khi nói chuyện lúc khám bệnh bao giờ Hào cũng chỉ nói một thứ Huế đặc trưng. Với cha mẹ Hào gọi là Ôn…Mệ…với bạn bè hắn kêu mi tau. Hắn ghét nhất là người Huế mà nói tiếng Nam mà hắn gọi là nói tiếng Mỹ Lợi (Một vùng ở miền ven đầm Cầu Hai nói tiếng trọ trẹ như tiếng Quảng).
          Ở những nơi công cộng như trong các quán ăn, các cuộc hội nghị thấy có người nào nói giọng Huế là hắn sà tới làm quen, rồi cụng ly như vừa gặp người thân thuộc. Hào từng thổ lộ - Hồi trước trong Nam còn ít dân Huế mỗi lần nghe ai nói tiếng Huế là muốn bắt chuyện hoài hoặc để được nghe tiếng Huế cho sướng tai. Khi khám bệnh có bệnh nhân nào nói tiếng Huế là cứ hỏi tới – quê ở mô ngoài Huế - răng mà vô đây – chừ làm việc chi – sướng cực ra răng. Và bất cứ ai trong số bạn bè của Hào đều từng nghe hắn ngâm nga hai câu thơ (hay vè!!) rặt Huế mỗi khi cao hứng:
          “Mạ ơi cho con hai đồng mua chai nước mắm     
          Một cô cha mi có như rứa mà cũng mần thơ”
         
          Mùa hè năm 2001 tôi và tụi bạn cùng khóa 9 kéo nhau về thăm Phan Trọng Toàn ở Long Khánh, trên đường đi ghé vào Gia Kiệm để thăm Hào và rủ qua nhà Toàn lai rai bù khú. Lúc đó hắn còn nói lia chia, kể chuyện bệnh tật của mình mà vui như kể chuyện đi du lịch – “Tao bây chừ khổ lắm, tìm hoài mà không biết bệnh chi đây. Gần một năm nay cứ mỏi mệt, sựt cân, khi sốt khi không, sáng tỉnh táo, chiều lạnh run, ăn không dám ăn, uống không dám uống (tay đang cầm ly bia). Thử máu, xét nghiệm nhiều lần nhiều nơi không thấy chi, phim phổi tốt, ký sinh trùng sốt rét âm tính, chức năng gan, thận ngon lành, hồng cầu bạch cầu đều tốt vậy mà chiều nào cũng hâm hấp nóng. Lưng và gáy mỏi như bà già. Thằng Hiền Phó Giám đốc Bệnh viện Chợ Quán bảo tao thử dùng một đợt thuốc sốt rét cũng không hết, nó lại bắt tau điều trị Lupus đỏ mặc dù ANA test và ASLO âm tính. Thôi kệ uống đại Prednison thấy đỡ mỏi mệt giảm sốt. Nhưng uống nhiều lại sợ biến chứng của Corticoid, phải chi ANA test dương tính thì uống cũng đành, ở đây nó lại âm tính. Thử bên Medic cũng âm, qua bên Hoàn Mỹ thử lại cũng âm. Giờ có tụi bây đây, tụi thấy tao nên làm cái chi nữa!!!” – Mi thử HIV chưa? – một thằng lên tiếng. Hắn chửi một câu – Mộ cô mi, mi nói như thằng Tùng, hôm lên xét nghiệm ở Hoàn Mỹ tốn cả triệu đồng, làm đủ thứ kể cả CRP/PCR lao. Lúc xem kết quả cái chi cũng tốt thằng Tùng bảo tau nên làm thêm test HIV tức hộc máu, nhưng cũng làm tuốt mà chẳng thấy chi mất thêm bốn mươi lăm ngàn nữa. Trần Minh San bèn kê một câu – Bệnh mi hết thuốc chữa rồi, thôi lại đây tao chụp cho một bô để mai mốt chết có hình mà thờ. Và hắn đến cho San chụp hình thật.
          Đùa đai vốn là bản tính chung của tụi tôi, nào ngờ chỉ mấy tháng sau đó khi đi chụp CT phổi thì phát hiện một khối u khá lớn ở thùy bên phổi phải.
          Tôi là người đầu tiên trong đám bạn bè biết được tin xấu đó bởi vì chính tôi cho chỉ định đi chụp CT, với quan điểm rằng để loại trừ hoặc phát hiện bệnh Lao đang tiến triển. Khi cầm kết quả chụp CT Hào gọi điện cho tôi mà miệng vẫn bô bô, “Thôi trúng số rồi Thu ơi. Tao bị K phổi rồi, cục to gần bằng quả quýt. Rảnh ghé lại nhà tao một chút. Tối nay tao phải về “Gia Kiệm”. Tôi đến với Hào sau giờ làm việc, ở đó đã có Quỳnh Ái, Liên Hoa là những người bạn cùng lớp thân thiết của hào. Ngồi trầm ngâm đưa mấy tấm phim cho tôi xem, Ái và Liên Hoa cũng ngồi thừ ra. Phương vợ Hào thì mắt đỏ hoe. Một lát sau Hào chậm rãi nói, “số mệnh đã vậy thì thôi, K phổi thì còn chữa chi nữa, mổ cũng chết mà không mổ cũng chết, để tiền cho con ăn học còn hơn. Tôi nghe Hào nói mà nghèn nghẹn nơi cổ. Biết nói gì với Hào bây giờ, hắn là một Bác sĩ quá biết dự hậu của cái bệnh gọi là ung thư phổi này. Nhưng không lẽ khi đang bị cuốn trôi giữa dòng nước lũ lại không cố với tìm một cái phao, một thân cây để may ra được ngoi đầu lên khỏi mặt nước.
          Như đã hạn, đúng ngày họp mặt Y khoa Huế năm 2002 Hào trở lại thành phố để nhập viện chờ mổ. Tôi muốn dành cho Hào một vinh dự trong ngày họp mặt đó bằng cách mời Hào cùng 2 người nữa là BS Nguyễn Hữu Tùng và BS Nguyễn Phạm Thế Vinh là những người tiêu biểu của năm 2002 giao lưu cùng tập thể Y khoa Huế. Hào rất đáng được vinh dự đó. Bởi theo tôi không ai yêu Huế như Hào đã yêu Huế. Không ai trân trọng với Ái hữu cựu sinh viên Y khoa Huế như Hào. Hào vun xới cho tình bằng hữu của Y khoa Huế với cả tấm lòng. Hào sốt sắng viết bải cho tờ nội san của Y khoa Huế trong tất cả 5 số báo đã in.
          Đến giờ làm lễ chẳng thấy bóng Hào đâu cả, tôi vô cùng lo lắng. Khoảng 10 giờ 30 phút, sau khi buổi lễ đã khai mạc 30 phút, tôi nhận được điện thoại từ Hào.Giọng nói Hào nghe rất yếu. “Mình lên đây hôm nay với mục đích để gặp tất cả bạn hữu” – Trong hội trường lúc này rất ồn ào tôi phải bước ra ngoài hội trường để nghe cho rõ hơn – “Không biết sau này có còn gặp lại nữa không? Nhưng bây giờ thì mệt quá không gượng dậy nổi”. Tôi nói ý định của tôi về cuộc giao lưu dành cho Hào, hắn thì thào nói, “Cám ơn Thu nhưng không thể ngồi dậy nổi chứ đừng nói chuyện đi. Thôi hẹn năm sau vậy, nếu mình còn sống đến ngày đó”. Tôi đứng lặng người một lúc lâu, lấy khăn lau hết nước mắt mới bước vào lại hội trường và quyết định hủy luôn cuộc giao lưu cả với các Bác sĩ kia là BS Tùng và BS Vinh.
          Về sau kết cuộc như thế nào thì các bạn đã rõ. Hào lên bàn mổ khoảng 03 ngày sau nhập viện. Cuộc mổ không thành công vì khối u đã khá lớn bám chắc vào động và tĩnh mạch. Điều trị hóa chất mấy đợt thấy người càng lúc càng yếu. Chuyển qua điều trị thuốc Nam và kể cả các niềm tin ngoài y học… tất cả điều đó chỉ giữ được Hào bên cạnh vợ con bè bạn thêm gần một năm. Để rồi một ngày đầu Xuân Quý Mùi, Hào vĩnh viễn rời bỏ cõi tạm (từ mà Hào hay dùng trước đây) để về cõi vĩnh hằng trước cả cha mẹ mình, trước anh chị và trước nhiều bạn bè cùng trang lứa khác.
                                                          Viết trong ngày giỗ của Trương Thoại Hào
                                                                          PHAN TIÊU THU









CHUYỆN TỬ SANH

          Bài viết này tôi có hơi dài dòng, và nhắc đến tên bạn bè trong và ngoài ngành hơi nhiều. Nhưng xin Ban biên Tập (BBT) đừng gạt bỏ, vì lỡ một mai tôi không còn, thì bài viết này xem như là một lời vĩnh biệt và cám ơn sâu sắc đến những người đã gần gũi, chăm sóc, an ủi tôi, cùng sống với tôi trong hoan lạc và đau đớn cho đến phút cuối. Xin BBT thêm vài số báo để gởi tặng những người có tên trong bài viết này.
                                                                                                Đa tạ
                                                                                     TRƯƠNG THOẠI HÀO
          Tôi tiếp nhận tin bị K phổi vào cuối tháng 3-2002 một cách bình tỉnh: Cái chẩn đoán này đã đeo đuổi tôi hơn 2 năm nay, mà đi khám thì các bệnh viện đều không tìm ra bệnh. Tôi đau bả vai phải hơn 2 năm, hít đất vài cái thì hết nên nghĩ là đau cơ, 1 năm nay có sốt về chiều, 37,50 , 380, khoảng 9-10 giờ đêm thì tự hết sốt, cũng nghĩ có thể bị phổi nên đã đi khám ở cơ quan, rồi ở Chợ Rẫy, Chợ Quán, nhưng không có kết luận là K phổi như hôm nay, sau khi chụp CT scaner.
          Nghĩ lại….không đổ lỗi cho cái tôi chủ quan đáng ghét như BS Đỗ Hồng Ngọc đã viết: “BS chỉ lo thăm khám điều trị cho bệnh nhân, không lo đến bản thân mình, đến khi bệnh phát nặng thì hết thuốc chữa…” Ở đây là chưa tìm ra bệnh chính xác, chứ tôi có ỷ y, không quan tâm đến sức khỏe của mình đâu.
          Cũng không đổ lỗi cho một số bạn bè thân, khi nghe tôi trình bày diễn tiến và chẩn đoán bệnh, vì thương mến và nể trọng tôi, nên cũng đã đồng tình, và cùng hướng đến nhiều xét nghiệm, nhưng không có xét nghiệm nào gợi ý về K cả.
          Lại cũng không dám đổ lỗi cho ông Tổ Hypocrate và Hải Thượng Lãn Ông, thấy y đước ngày một suy đồi nên mang một số thầy thuốc ra bắt tội để răn đe những kẻ khác: Anh Hồ K2, Thanh Phương K11, Phổ K12 và tôi K10. Kính thưa hai đấng tối cao, chúng con ra đi trong đau đớn, tốn kém và suy kiệt không ra hình người thì oan cho chúng con lắm đó. Nên con xin Ngài: sau con, đừng bắt ai chịu tôi như con đã và đang chịu, oan ức cho chúng con lắm.
          Vợ chồng Thu, San, Ái, anh chị Bửu tôi đến thăm ngay khi biết tin tôi bị K phổi, ai cũng khuyên tôi nên mổ sớm – trái với điều tôi đã nghĩa và đã nói với vợ con: “ Ba sẽ không mổ, cũng không hóa xạ gì cả, vì chỉ kéo dài thêm vài ba tháng, Ba càng đau đớn thêm, và tiêu mất của các con hơn 100 triệu – số tiền đủ cho các con ăn học hơn một năm”.
          Nhưng đã chơi với bạn thì phải nể trọng và vâng lời bạn, tôi đồng ý sẽ mổ sớm. Tối đó, tôi lái xe chở vợ về đến  nhà ở Gia Kiệm lúc 1 giờ 30 khuya, vẫn bình tĩnh thay quần áo đi ngủ. Sáng hôm sau, có Tổ đãi, bệnh nhân đến khám và siêu âm rất đông, vẫn yêu đời, khám, dặn dò….mà lòng lại nghĩ: Tôi sẽ rời cuộc đời này trước quý vị đấy.
          Mẹ tôi khóc thành tiếng, rên rỉ “Con tôi làm gì nên tội? Con làm gì nên tội?. Ba tôi cứ nhìn lên trần nhà cố nuốt vào trong những dòng nước mắt chực trào ra – hình như khóc trước mặt con cái là điều Ba tôi tối kỵ - nhưng làm sao được? Tuyến lệ nhỏ quá nên Ba tôi phải đưa tay lên quệt liên tục, hai mắt đỏ hoe. Chị và mấy em mặt ai cũng chảy dài như già thêm 10 tuổi, mặt cắm xuống đất, không biết mấy em giận trời hay giận tôi câm nín chịu đựng, dù trước đó tôi vẫn tưởng sẽ ôm chầm lấy ba mẹ tôi “Con bất hiếu”, ôm em tôi “anh bất nghĩa”.
          Hôm sau dù không báo, nhưng một số bạn bè và bệnh nhận lũ lượt đến thăm. Cũng như các chiến sĩ thấy đồng đội ngã xuống bên cạnh, nhưng vẫn mạnh dạn xông lên cho kịp chiến dịch – Các Y Bác sĩ bạn tôi hằng ngày đối mặt với cái chết, thế mà cũng không dấu diếm những giọt nước mắt cảm thông. Trời ơi! Những giọt nước mắt chia sẻ và thương cảm cho hoàn cảnh của tôi.

          Tôi rời nhà buổi sáng sớm, không cho ai đưa tiễn. Tôi không muốn nhìn thấy thêm những giọt nước mắt – cũng là ngày họp mặt cựu sinh viên Y khoa Huế. Hàng năm, tôi mong chờ ngày họp mặt này vì tinh thần và không khí ấm cúng khi gặp lại anh em bạn đồng môn. Giờ đây, ngồi thở dốc một lúc, thấy sức khỏe không cho phép tham dự, tôi đành ngồi nhà, nghĩ đến không khí đang vui vẻ đầm ấm ở khách sạn Kỳ Hòa, lòng tôi tiếc nuối rưng rưng, nuốt sâu vào lòng những tiếng thở dài âm thầm, mà dữ dội.
          Nhập viện trong sự giúp đỡ tận tình của Quỳnh Ái Delin, Tuyết Hạnh, cùng các Bác sĩ Y tá khoa Ngoại lồng sức – Thế là yên tâm, sự gì phải đến đang đến, không thay đổi được thì hãy chấp nhận nó để  khỏi bị dằn vặt. Ngày nào cũng đi làm các xét nghiệm thường kỳ, tôi càng lúc càng yếu, ăn ngủ kém, ngồi trên xe lăn cho vợ đẩy.
          Tôi cầu mong cho tất cả các bạn đừng có ai bị làm Bronchoscopie như tôi, đúng là địa ngục trần gian: sáng bắt nhịn đói, 10 giờ được chích và đợi bơm thuốc tê vào mũi miệng, và 3cc vào phế quản, tôi ho sặc sụa. 2 nữ Bác sĩ trấn an tôi: “Bác cố hợp tác”. Câu này tôi cũng thường dùng với bệnh nhân – nhưng hợp tác kiểu nào, vì ho sặc là một phản xạ khi có dịch vào khí phế quản?! Tôi cố nén, cảm thấy ống nội soi đi vào từng thùy, cố nén những cơn ho sặc, nước mắt ràn rụa. Rời bàn, tôi gục ngã, thở khò khè như người lên cơn suyễn sắp chết. 14 giờ tôi mới được uống ly sữa đầu tiên trong ngày. Một y tá hay điều dưỡng tuổi xồn xồn, mập ú, bắt tôi thở đủ kiểu; Thở quá mệt mà cũng không được, cô ta la lên: Thở không được, bỏ không làm nữa!”. Tôi quắc mắc nhìn lên và giận dữ: “Tôi là một Bác sĩ, tôi bệnh nên mới vào hoàn cảnh này. Tôi không làm nữa”. Chị ta đổi ngay thái độ, ôn tồn thở mẫu để tôi làm theo. Làm Bác sĩ đôi khi cũng sướng, gần chết, hù, mà người khác cũng biết sợ!.
          Cuộc đời này là cõi tạm, chết mới là về cõi vĩnh hằng. Thế mà không ai muốn rời cái cõi tạm này để trở về với Thiên Đàng/Niết Bàn? Những bệnh nhân chấn thương sọ não sống nhờ bóp bóng, những người tay chân nát bấy, những bệnh nhân bị K chỉ còn da bọc xương, xanh như tàu lá, nằm bất động như sống đời sống thực vật......ai cũng có cả nhóm thân nhân chạy theo, mắt mày lo lắng, biết là sau cấp cứu, dù có sống, cũng là sống đời thực vật, phiền với con chăm sóc – nhưng ai cũng cố níu kéo để được tiếp tục ở lại nơi cái cõi tạm này. Có phải quan niệm này do người đời đặt ra hầu tự an ủi khi bước dần vào cõi chết?
          Tôi thì quyết bám vào cõi tạm dù xa xa thấp thoáng bóng dáng của vô thường, vì cõi tạm này tôi còn nặng nợ quá:
          Tôi thật đại bất hiếu, nếu chối bỏ đạo làm con, bỏ ra đi trước 3 bậc sinh thành, trốn bỏ nghĩa vụ thiêng liêng lo cho cha mẹ hai bên đến khi trăm tuổi.
          Tôi quyết bám víu cõi tạm, vì thật bất nghĩa một khi chưa lo cho vợ đến nơi đến chốn, khi không cùng vợ tôi sánh vai vui buồn và cùng nuôi dạy con cái khôn lớn. Vợ tôi thời ấu thơ sống trong sung sướng, tốt nghiệp Đại học, đi dạy, rồi sau này phụ tôi soạn thuốc và dặn dò bệnh nhân; vợ tôi luôn bị ói vì dị ứng với chất thải của người khác; thế mà giò đây hàng đêm phải trải chiếu dưới nền kế giường tôi, mặc cho mọi người bước ngang dọc từ đầu đến chân, giờ đây hàng ngày đẩy xe đưa tôi đi xét nghiệm, săn sóc tôi chu đáo, ân cần, dịu dàng, thấy đủ mọi cái dơ dáy mà vẫn cắn răng chịu đựng được. Ôi, tiếc thay khi lìa bỏ một người phụ nữ Việt Nam đáng yêu, một người vợ hiền thục và đức hạnh, một đời sống vì chồng, vì con.
          Tôi quyết víu vào cõi tạm vì chưa lo cho các con ăn học thành tài, chối bỏ thiên chức làm cha, để các con bơ vơ trong những ngày đại và tiểu đăng khoa, các con sẽ buồn biết mấy. Tôi thường an ủi: “Nếu ba có ra đi lúc này, các con cũng đã hạnh phúc lắm rồi, vì các con đã đủ lớn để bước vào đời, có những đứa trẻ mới 1,2 tuổi chưa từng thấy mặt cha mới thật là bất hạnh. Lòng nhân ái, đức hy sinh, tính hòa thuận, hành trang là nụ cười.....thì các con đã học được của Ba rồi, Ba yên tâm vì tương lai các con.
          Tôi bám vào cõi tạm vì anh chị em ruột sống với nhau dưới một mài nhà, đến khi lập gia đình riêng vẫn giữ nguyên mối quan hệ máu mủ thâm tình, và thêm các anh chị em bên vợ, cũng sống chân tình không phân biệt, cùng nhau đóng góp ý kiến giải quyết các khó khăn gặp phải trong cuộc sống. Đành dứt bỏ anh em, tôi có bất nghĩa?
          Bạn bè trong và ngoài ngành, thân nhau từ độ tiểu học, hay mới quen biết thời gian sau này,đều chơi với nhau chân tình, không một chút dối trá; tưởng rằng được quan hệ  với nhau đến trọn đời, xẻ chia vui buồn lớn nhỏ, mong ngày 70 tuổi vẫn còn chống  gậy đến thăm nhau, ôn lại quá khú, làm bài học cho con cháu; cuộc đời an lành thế, sao tôi lại phải rút khỏi cuộc chơi sớm?
          Trong 25 năm hành nghề, khi tôi tiếp xúc với bệnh nhân, hoàn toàn không có kiểu kinh doanh dối trá, lừa bịp, mà ngược lại, đã tạo được khá nhiều ân đức. Hơn một năm nay tôi đã khám và cấp thuốc miễn phí cho tất cả trẻ em dưới 12 tháng tuổi, lòng tôi thanh thản lạ kỳ và tôi biết tôi đã thoát được một phần khỏi vùng cơm áo trần tục. Lòng hẹn với lòng, đến năm 60, tôi sẽ khám và cấp thuốc cho tất cả các bệnh nhân – đây xem như là đền đáp lại cuộc sống ổn định mà bệnh nhân đã mang lại cho tôi. Sự tin tưởng, kính trọng và tri ân mà bệnh nhân đối với tôi, trong khi tôi chưa thực hiện được hoài bão tuổi 60 của mình – tôi lại xé áo dứt bỏ, tôi có bất nhân?
          Cõi tạm ơi, ta còn nặng nợ quá. Tôi không xin thêm thời gian, chỉ biết tâm tôi còn nhiều hoài bão và ước nguyện quá. Tiếc quá khi từ bỏ nhau.

          7giờ 0: Đẩy xuống phòng mổ, tôi vẫy tay chào tạm biệt vợ con như một chuyến đi ngắn ngày.
          13 giờ: Tôi tỉnh lại, mơ hồ nhận định cuộc mổ thất bại vì tôi tỉnh nhanh quá. Dự kiến cắt thùy trên phổi (P), nhưng bướu dính tĩnh mạch chủ trên và động mạch dưới đòn (P) nên chỉ làm Biopsy và đóng ngực lại. Đã không thể cải thiện được hoàn cảnh thì hãy chấp nhận nó. Nên tôi vẫn cười nói, như bệnh K này là của một ai đó xa lạ.
          Điều an ủi to lớn nhất đời tôi, mà đến lúc này tôi mới được hưởng, là trong những ngày nằm bệnh viện, và sau khi đã về nhà, thân nhân bạn bè đến thăm nườm nượp, liên tục không dứt cho đến hết giờ thăm bệnh. Từng đoàn từ Gia Kiệm đi xe 12 chỗ, chính quyền, Phòng khám khu vực, Trung tâm Y Tế, một số đồng nghiệp ở Biên Hòa, một số Trường học.....còn thân hữu ở Gia Kiệm, các bạn trong và ngoài ngành tại Sài Gòn đến thăm thường xuyên. Có người trước đó chỉ gặp mới có một lần.
          Cách đây 20 năm, tôi đã ngộ rằng: “Tiền bạc không mang lại hạnh phúc”. Ngoài công việc hàng ngày đủ nuôi sống vợ con, tôi trải lòng sống với bạn bè và mọi người xung quanh. Mẹ tôi hay than phiền: “Bác sĩ người ta nhà  2,3 cái to rộng, con mình nhà không ra nhà, không bằng căn bếp người ta”. Tôi cười nhẹ: “Để mẹ xem, sau này khi Ba mẹ trăm tuổi, hay khi con bệnh, bạn bè đến thăm ai đông hơn?” – đây coi như một lời tiên tri đã được ứng nghiệm.
          Bạn bè thăm đông, lòng tôi ấm lại, được tăng nghị lực để chấp nhận hoàn cảnh Đồng môn khóa 9 đối xử chân tình và chia xẻ sâu sắc hơn một số bạn khóa 10 của tôi, bởi tôi chỉ khao khát một sự chia sẻ tận đáy lòng. Biết làm sao được khi các bạn chưa NGỘ, chưa thoát khỏi vòng cơm ái gạo tiền, chưa vượt được sự ham muốn đời thường – nên tôi biết một số bạn khóa 10 của tôi cuộc đời vẫn còn lận đận.
          Các chị em tôi, các đàn anh, và bạn bè đồng khóa huy động góp tiền gởi về giup tôi. Có 2 gia đình trước là bệnh nhân, sau này trở thành bạn, định cư nước ngoài 10 năm nay, mỗi bạn đã gởi cho tôi hơn một lần hóa trị. Một số bạn ở Việt Nam đã nhét tiền vào túi, tôi nghẹn lời rưng rưng. Một số đồng nghiệp cùng cơ quan, sống nhờ vào đồng lương hàng tháng – cái ăn cái mặc, sự học của các con đều trông nhờ vào đồng lương ít ỏi này, thế mà dũng dấm dúi một hai trăm ngàn cho tôi, cách cho hơn của cho làm tôi nhận mà chạnh lòng.
          Việt từ Pháp về đột xuất, khi nghe tin, khóc hu hu như đứa trẻ lên 3, khi từ giã Việt ôm hôn thân ái, làm như ngày mai tôi chết!
          Hoạt từ Mỹ về với gia đình, nặng lòng vì bệnh cha đang nằm Chợ Rẫy và bệnh của tôi. Hoạt giúp tiền lần thứ 2, tôi từ chối, thế là Hoạt mang cho tôi 200 viên thuốc đắt tiền, mà không nói tên thuốc ra ai cũng biết. Tôi bán đi, đủ chi phí cho 2 lần hóa trị! Xin các bạn cho Hoạt biệt danh “Hoạt Viagra” vì anh ta thích thế.
          Đài, Lai sẽ về nay mai – trông ngóng đến bao giờ đây?
          Đời cũng ngã bệnh một lần để biết được mình cho và nhận bao nhiêu? Tôi đã thấy và tự cân được mình. Nhưng thà các bạn bị tai nạn gãy 2 xương đùi, các bạn bị cắt dạ dày hay bị tai biến liệt nửa người....chứ các bạn đừng ngã bệnh như tôi....sẽ biết được lòng người đối với mình, để đánh giá lòng mình đã đối với người, nhưng bệnh nghiệt ngã quá, không có thuốc chữa, không có lối thoái, sẽ ra đi trong đau đớn, suy kiệt.....cầu mong cho các bạn đừng lâm vào hoàn cảnh như tôi.
          Hàng tuần tôi vào Chợ Rẫy hóa trị 1 lần, nhìn những giọt Serum pha thuôc nhỏ giọt, từng giọt, từng giọt... mỗi giọt 2000 đồng, chai 100ml đếm cho hết cũng đã mất 6 triệu, thêm các thuốc râu ria khác, nên mỗi tuần phải mất 450 USD – lại đếm tiếp từng giọt...
          Những ngày ở nhà, chơi với các con, xem TV, đọc báo lại mệt, dù sáng sáng đã cố tập khí công 1 giờ để chữa ung thư do BS Vĩnh dạy.
          Từng giọt, từng giọt, từng giọt....
                     Con người sinh ra để làm gì?
          Từng giọt, từng giọt, từng giọt....
                     Con người chết đi về đâu?
          Từng giọt, từng giọt, từng giọt....
          Tôi đã làm gì cho đời, và nhận ở đời được những gì?
          Từng giọt, từng giọt, từng giọt....
          Tôi còn đếm đến bao giờ đây? Ngày nay, ngày mai, hay một năm nữa?

TRƯƠNG THOẠI HÀO
Khóa 10


GHI THÊM:

          Bài di cảo này. Hào em tôi viết vào ngày 05 tháng 6 năm 2002, sau khi phát hiện bị K phổi ngày 27/3, nhập viện Chợ Rẫy ngày 2/4, đã xuất viện về nhà và hóa trị hàng tuần.

          Biết ra sao ngày sau?

          Chính Hào em tôi đã biết ngày sau ra sao, và cái ngày ấy cuối cùng cũng đã đến, vào 8/3/2003   lúc 13 giờ 35

          Nghĩ đến ngày xưa, cụ Nguyễn Du đã băn khoăn”...thiên hạ hà nhân khấp tố như”, nghĩ đến Nguyễn Khải trong gặp gỡ cuối năm đã cho rằng sống một cuộc đời đáng sống, là “khi nằm xuống, nhận được vài giọt nước mắt của dăm ba người bạn thân tình”, thì đối với Hào em tôi, khi bệnh nặng kéo dài, cả hàng trăm người bạn thân tình đã đến viếng thăm, động viên, chỉ bày phương cách trị liệu, biếu tiền/quà; và cũng cả rừng hàng trăm người bạn thân tình ấy đã đến thắp nhang, phúng điếu, tiễn đưa Hào đến nơi an nghỉ cuối cùng, trong suối nước mắt tiếc thương.
          Hào em ơi, em hãy ra đi thanh thản, hãy quãng gánh nợ nơi cõi tạm này đi, vì bên cạnh Ba mẹ, vợ con em vẫn luôn luôn có hàng trăm thân hữu ấy.
          Và thay mặt gia đình, xin chân thành ghi ơn các BẠN.

                                                                                     TRƯƠNG THOẠI BỬU